Tập san của Hiệp hội hợp tác Công nghiệp-Viện Hàn lâm Hàn Quốc
Tập 17, Số 5, trang 203-212, 2016
Nghiên cứu về Phòng ngừa Huyết khối tĩnh mạch sâu và Phản xạ của da của Bệnh nhân sau Phẫu thuật nội sọ
Bằng Thiết bị xoa bóp khí nén không liên tục loại giày ống và loại ống bọc bắp chân
Thiết bị phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu DVT 2600
Moo-Yong Cho1, Boon-Han Kim2*, Ki-Sook Kim3
1Sinh viên Tiến sĩ, Khoa Điều dưỡng, Trường Cao học Hanyang
2 Khoa Điều dưỡng, Trường Đại học Hanyang
3Bệnh việc Đa khoa Bundang Jesaeng
Tóm tắt. Nghiên cứu này đã kiểm tra việc phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu và phản xạ của da sau khi sử dụng Thiết bị xoa bóp bằng khí nén không liên tục (IPC) loại giày ống và loại ống bọc bắp chân ở bệnh nhân không thể chuyển động sau khi phẫu thuật nội sọ. Các đối tượng của nghiên cứu này bao gồm 60 bệnh nhân thuộc khoa hồi sức ngoại sau khi phẫu thuật nội sọ từ tháng 05 đến tháng 11 năm 2015. Vận tốc dòng máu được đo hàng ngày để đánh giá huyết khối tĩnh mạch sâu trong 7 ngày và phản xạ của da ở chân được quan sát thường xuyên. Do đó, nhóm dùng IPC loại giày ống cho thấy vận tốc dòng máu tăng lên qua thời gian so với nhóm dùng IPC loại ống bọc bắp chân. Điểm khác biệt có ý nghĩa thống kê được theo dõi ở cả hai nhóm dùng IPC loại giày ống và nhóm dùng IPC loại ống bọc bắp chân theo thời gian (Bên phải, F = 64,41, p <.001, Bên trái, F = 58,21, p <.001). Vòng lưng theo thời gian và tương quan giữa hai nhóm (Bên phải, F = 9,13, p <.001, Bên trái, F = 9,29, p <.001) cũng cho thấy sự khác biệt đáng kể. Ngoài ra, nhóm dùng IPC loại giày ống không có biến chứng trên da. Tóm lại, phương pháp dùng IPC loại giày ống hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu cho bệnh nhân không thể chuyển động sau khi phẫu thuật nội sọ.
* Tác giả tương ứng: Boon-Han Kim (ĐH Hanyang)
ĐT: +82-2-220-0700 email: bhkim@hanyang.ac.kr
Nhận ngày 01/04/2016 Hiệu chỉnh (lần 1 ngày 20/04/2016, lần 2 ngày 05/04/2016)
Phê duyệt ngày 12/05/2016 Công bố ngày 21/05/2016
1.1 Giới thiệu
Huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) là nguyên nhân chủ yếu gây thuyên tắc phổi (Pulmonary embolism, PE), và rối loạn nhịp tim là một trong những nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất của DVT [1]. Theo báo cáo của Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát Bệnh tật Hoa Kỳ (2012), mỗi năm có khoảng 200.000 đến 400.000 người bị DVT, trong đó 90% nguy cơ phát triển thành PE. Ít nhất 100.000 người tử vong do tử vong mỗi năm do bị DVT [2]. Theo một nghiên cứu của một nhà nghiên cứu Hàn Quốc trích dẫn trong Thẩm định và Đánh giá Bảo hiểm Y tế, từ năm 2004 đến năm 2008 tỷ lệ mắc PE tăng 56% từ 8,83 lên 13,8 người trong số 10.000 người, ảnh hưởng đến những người trên 60 tuổi [3]. DVT có thể là nguyên nhân của một căn bệnh gây chết người như PE có thể dẫn đến chứng tê liệt, không thể di chuyển, phẫu thuật, mạch máu tĩnh mạch bị tổn thương do gãy xương hoặc đông máu đông nhiều hơn bình thường [2].
Bộ ba yếu tố của Wirchow cho thấy rằng huyết khối có ba yếu tố đóng góp chính: ứ đọng dòng máu, thương tổn nội mô và tăng tình trạng đông máu. Nguyên nhân lâm sàng của huyết khối bao gồm do bất động, thương tích, phẫu thuật và nhiễm trùng. Các yếu tố liên quan khác bao gồm tuổi tác, béo phì, bệnh ác tính, tiền sử bệnh mạch thuyên tắc tĩnh mạch, giãn tĩnh mạch, mất nước và điều trị hormon [5]. Đặc biệt, chính phẫu thuật có thể là nguyên nhân gây DVT, và một số yếu tố nguy hiểm có thể kèm theo tùy thuộc vào thời gian phẫu thuật, nguyên nhân gây bệnh, và phương pháp gây tê [6]. Sau khi phẫu thuật, tỷ lệ bị DVT cao, chiếm từ 10 đến 40% tỷ lệ mắc phải, nhưng khi áp dụng biện pháp phòng ngừa DVT cho bệnh nhân, tỷ lệ bị DVT đã giảm xuống còn 2%. Do đó, các biện pháp phòng ngừa DVT là nghiệp vụ y tá quan trọng nhất [7,8].
Hướng dẫn phòng ngừa DVT do Viện Chăm sóc Sức khoẻ Quốc gia (NICE) đưa ra cho biết, các bước phòng ngừa DVT bao gồm việc sử dụng các thiết bị như hệ thống xoa bóp bằng khí nén không liên tục dạng ống bọc bắp chân hoặc dạng vớ chống huyết khối loại ôm đầu gối, loại bọc không phủ bàn chân , loại bắp đùi hoặc bọc đầu gối. Thuốc phòng ngừa có thể áp dụng cho những bệnh nhân không có nguy cơ bị chảy máu cao, nhưng cách hiệu quả nhất là áp dụng cả thiết bị và các phương pháp phòng ngừa khác. Tuy nhiên, có một số trường hợp không áp dụng thuốc chống huyết khối cho bệnh nhân có nguy cơ bị chảy máu cao hoặc các trường hợp khác khó áp dụng các quy trình chuẩn hóa [9].
Bệnh nhân phẫu thuật thần kinh có nguy cơ bị chảy máu cao sau khi phẫu thuật. Không nên sử dụng thuốc chống đông máu cho những bệnh nhân đó. Kết quả là, nguy cơ bị DVT tăng lên [10]. Do đó, việc tăng vận tốc dòng máu để quay trở lại tĩnh mạch đến nơi mà nó được sử dụng là cách duy nhất cho các bệnh nhân sau khi phẫu thuật thần kinh [11].
Liệu pháp xoa bóp chân bằng khí nén cũng được sử dụng để tiện cho bệnh nhân theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào tình trạng của khoa hồi sức ngoại.
Trong trường hợp bệnh nhân được điều trị bằng máy hô hấp trong khoa hồi sức ngoại, thiết bị IPC sẽ được sử dụng vì chúng được chọn cho đối tượng nghiên cứu trường hợp về điều trị phòng ngừa DVT bằng cách sử dụng IPC và thuốc chống đông máu [12]. IPC là một máy bơm không khí vào vòng bít và đặt nó trở lại để giúp ngăn chặn tắc tĩnh mạch máu bằng cách liên tục ấn và thả liên tục. Nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng việc sử dụng IPC đã có hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ bị DVT [14,15,16,17]. Hơn nữa, nghiên cứu còn cho thấy nhóm dùng IPC trong số các bệnh nhân nội khoa rõ ràng có tỷ lệ bị DVT thấp hơn [14].
Nghiên cứu do một tổ chức trong nước thực hiện đã báo cáo rằng nhóm người dùng IPC đã có nhiều biến đổi hơn về tốc độ dòng máu trung bình của khi so sánh với nhóm người dùng vớ xoa bóp [12]. Ngoài ra, bệnh nhân sau khi thay toàn bộ khớp gối sử dụng bơm hơi dùng chân có vận tốc trung bình của tĩnh mạch máu tăng lên [13].
Hiện nay, khả năng áp dụng IPC là tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của đơn vị hồi sức (ICU) của cơ sở y tế [12]. Các loại IPC bao gồm đùi, đầu gối và bàn chân. Chúng được sử dụng tùy thuộc vào bác sĩ và thiết bị y tế. Loại bọc đầu gối là loại được sử dụng rộng rãi nhất, nhưng đã phát hiện ra các tác dụng phụ tiềm ẩn trên da tại các cơ sở y tế.
Việc sử dụng thiết bị để ngăn ngừa DVT là một trong những biện pháp can thiệp điều dưỡng thiết yếu nhất cho các bệnh nhân nặng không thể di chuyển và nằm trên giường suốt ngày, do tổn thương não và phẫu thuật não. Thiết bị cụ thể là vòng bít đầu gối được sử dụng rộng rãi nhất, tuy nhiên có thể bị sầy da và sung phù bàn chân khi sử dụng vòng bít. Mặc dù vậy, theo kinh nghiệm, tác dụng phụ này rất hiếm. Để loại bỏ tác dụng phụ này, đã phát minh ra một IPC loại giày ống, nhưng vẫn chưa có bằng chứng thực nghiệm nào chứng minh. Hướng dẫn phòng ngừa huyết khối và các phương pháp làm việc tốt nhất vẫn chưa xác định được tiêu chuẩn. Vì vậy, bạn cần phải tự mình đảm bảo rằng loại vòng bít cùng với IPC là an toàn hơn và phù hợp với bệnh nhân. Báo cáo này tìm hiểu lý do tại sao vòng dạng giày ống cùng với IPC, có thể khắc phục lỗ hổng của vòng dạng bọc đầu gối cùng với IPC, nên là tiêu chuẩn được sử dụng trong khi thực hiện điều dưỡng để phòng ngừa DVT khi chứng nhận hiệu quả của nó.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu này là để xác định nên sử dụng loại vòng bít hay ống bọc cùng với máy IPC để phòng ngừa DVT. Bài viết này sẽ khảo sát tính hiệu quả của máy IPC khi sử dụng với bệnh nhân trong phòng IPC sau khi phẫu thuật não. Nghiên cứu theo dõi vận tốc dòng máu trung bình của bệnh nhân và phản xạ của da dựa vào loại phương pháp xoa bóp không liên tục đã được sử dụng.
1.3 Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất: Nhóm bệnh nhân dùng ống bọc dạng giày ống cùng với máy IPC sẽ có vận tốc dòng máu tĩnh mạch cao hơn so với nhóm bệnh nhân dùng ống bọc đầu gối.
Giả thuyết thứ hai: Sẽ có sự khác biệt trong phản xạ của da giữa nhóm bệnh nhân dùng ống bọc dạng giày ống với nhóm bệnh nhân dùng ống bọc đầu gối.
Giả thuyết thứ ba: Sẽ có sự khác biệt về việc liệu DVT có xảy ra hay không giữa nhóm bệnh nhân dùng ống bọc dạng giày ống với nhóm bệnh nhân dùng ống bọc đầu gối.
1.4 Định nghĩa
1.4.1 Phương pháp can thiệp bằng cách gây áp lực lên thân dưới cùng với việc sử dụng thiết bị xoa bóp bằng cách gây áp lực không liên tục.
Đây là một cách để ngăn chặn ứ đọng tĩnh mạch máu vì nó có thể đẩy nhanh tốc độ dòng máu tĩnh mạch và tăng lượng máu tĩnh mạch vì nó làm cho tĩnh mạch rộng hơn và giảm đông máu. Do đó, nó giúp làm giảm tỷ lệ bị DVT. Trong nghiên cứu này, máy IPC ấn và thả liên tục, và có thể chuyển từ vòng dạng giày ống sang vòng dạng bọc đầu gối hoặc ngược lại. Ngoài ra, máy IPC bơm không khí vào vòng bít hoặc ống bọc thường xuyên, hoặc theo các quy trình nhất định.
1.4.2 Tốc độ trung bình của dòng máu tĩnh mạch ở đùi.
Tốc độ trung bình đo được của dòng máu tĩnh mạch trên một người đàn ông bình thường là 9,69 cm/giây trong khi nghỉ ngơi, và số số đo càng cao thì vận tốc dòng máu càng nhanh. Điều này có nghĩa là tỉ lệ bị DVT giảm [8]. Trong báo cáo này, số đo nghĩa là số đo trên cả hai mặt của đùi bằng Doppler mạch máu.
1.4.3 Phản ứng của da
Báo cáo này giải thích rằng sau khi áp dụng các vòng bít IPC, phải theo dõi tình trạng phù chân, trầy xước và phồng giộp trên da. Hiện tượng sưng phù bàn chân thể hiện qua số đo chu vi vòng mu bàn chân và mắt cá chân khi bệnh nhân sử dụng vòng bít cùng với IPC. Các vết trầy xước và phồng giộp thể hiện kết quả là chúng có được phát hiện thấy trên các bộ phận của vòng bít cùng với IPC hay không.
1.4.4. Huyết khối tĩnh mạch
Chứng huyết khối tĩnh mạch là một bệnh gây tụ hoặc đông máu, ngăn cản dòng máu tĩnh mạch, hoặc gây nghẽn mạch phổi [20]. Trong báo cáo này, ý nghĩa của huyết khối tĩnh mạch là chứng huyết khối được quan sát bởi một chuyên gia qua siêu âm 7 ngày trước và sau khi sử dụng IPC.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1 Kế hoạch nghiên cứu
Báo cáo này là một nghiên cứu thực nghiệm phân tích và đánh giá tỷ lệ bị DVT, tổn thương da và vận tốc trung bình của dòng máu tĩnh mạch trong suốt 7 ngày trước và sau khi sử dụng vòng bít IPC loại ống bọc đầu gối và loại giày ống cho bệnh nhân hậu phẫu thuật não. Các bệnh nhân chia thành hai nhóm khi đến bệnh viện.
2.2 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào những bệnh nhân nhập viện do tổn thương não và hậu phẫu thuật não tại bệnh viện B ở thành phố G từ tháng 05 đến tháng 11 năm 2015. Chương trình G*Power3.1 được sử dụng để tính toán kích thước mẫu phù hợp được yêu cầu cho Phép phân tích ANOVA đo lường lặp lại. Điều này đã giúp quyết định sẽ chọn bao nhiêu bệnh nhân. Kết quả được tính với kích thước hiệu quả f = .025, mức ý nghĩa (α) = .05, năng lực của phép kiểm định (1-β) = .80, với tổng cộng là 58. Theo đó, chúng tôi chia 60 người thành hai nhóm ba mươi và tập trung vào họ.
GC: Đặc điểm chung, MVV: Vận tốc tĩnh mạch trung bình, AC: Chu vi vòng mắt cá chân, DC: Chu vi vòng mu bàn chân, SR: Phản xạ của da
Hình 1. Thiết kế nghiên cứu
2.3 Công cụ nghiên cứu
2.3.1. Máy xoa bóp bằng khí nén không liên tục (IPC) có tên khác là DVT-3000, thường xuyên thổi phồng và tạo áp lực lên các bộ phận của cơ thể, để sử dụng tùy thuộc vào mục đích của bạn. Chúng bao gồm: loại ống bọc đùi, ống bọc đầu gối và loại giày ống (Hình 2). Ống bọc bắp chân
2.3.2. Tốc độ trung bình của dòng máu tĩnh mạch.
Doppler xuyên sọ (SONARA.TEK, Natus, USA) và máy dò 4MHz được sử dụng để đo tốc độ trung bình của dòng máu tĩnh mạch, và vận tốc máu là giá trị (cm/giây) với các thiết bị trợ giúp trực quan như video và con số thực tế. Việc kiểm tra trên máy được thực hiện bởi một chuyên gia từ công ty của máy, trước khi thu thập dữ liệu và trong suốt giai đoạn thử nghiệm.
2.3.3. Đo DVT
DVT được đo bằng cách sử dụng các hệ thống siêu âm Z.One (Z.One, Zonare, Hoa Kỳ) sử dụng tín hiệu Doppler và hình ảnh thay đổi màu sắc để xác định xem có huyết khối hay không. Đầu dò siêu âm với tần số 5-10 MHz được sử dụng, và máy này được kiểm tra hàng quý bởi kỹ thuật viên của công ty cung cấp.
2.3.4 Phản ứng của da
Các phản ứng của trên da gồm có sưng phù bàn chân, trầy xước và/hoặc phồng giộp. Giá trị của sưng phù bàn chân được đo bằng thước đo cm trên phần bị sưng to nhất. Các bệnh nhân được kiểm tra hàng ngày để xem họ có bị trầy xước hay phồng giộp từ đầu gối đến các ngón chân hay không.
2.4 Phương pháp thu thập dữ liệu
Báo cáo này được ủy ban đạo đức nghiên cứu cho phép (giấy cho phép số DMCRN15-1), và được tiến hành với sự cho phép từ phòng ban bệnh viện có liên quan. Báo cáo này chỉ được tiến hành sau khi được sự đồng ý của người giám hộ bệnh nhân sau khi người giám hộ xem xét cảm giác của bệnh nhân. Ngoài ra, chúng tôi đã yêu cầu các y tá hợp tác đã hỗ trợ nghiên cứu bằng cách giải thích phương pháp và mục đích nghiên cứu. Một y tá quản lý trong phòng ICU, ba y tá đã từng làm việc trong phòng ICU trong ba năm, một chuyên gia về siêu âm âm và một bác sỹ chuyên khoa phẫu thuật ngực cho biết nghiên cứu này. Nhà nghiên cứu và trợ lý của mình, người quản lý phòng ICU, đã hướng dẫn các y tá tham gia vào các nghiệp vụ can thiệp điều dưỡng. Việc đo tốc độ dòng máu được thực hiện bởi ba y tá người đã được đào tạo về nghiên cứu. Siêu âm và việc xác định xem DVT có xảy ra hay không được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật ngực và bác sĩ chuyên khoa điều tra mạch máu. Ngoài ra, bác sĩ chuyên khoa về mạch máu đã hướng dẫn các y tá tham gia trong bốn lần riêng biệt liên quan đến việc sử dụng doppler xuyên sọ để xác định vị trí của mạch máu và tư thế đúng của bệnh nhân trong quá trình đo để cải thiện tính nhất quán của phép đo giữa các y tá.
2.4.1 Kiểm tra và chuẩn bị trước
Sau khi phẫu thuật não và khi vào phòng ICU, người quản lý phòng ICU phân nhóm so sánh và nhóm thực nghiệm. Ngoài ra, người quản lý điều tra mức độ nhận thức của bệnh nhân khi nhập viện, lịch sử nhập viện, giới tính, tuổi tác và chẩn đoán để kiểm tra sự tương đương giữa các bệnh nhân. Thêm vào đó, người quản lý đã điều tra thời gian sử dụng IPC của bệnh nhân từ khi vào phòng ICU, vận tốc dòng máu tĩnh mạch, nếu siêu âm được thực hiện hay không, và đo chu vi của vòng mu bàn chân và mắt cá chân. Y tá đo chu vi cả hai vòng mắt cá chân ngay phía trên xương mắt cá chân. Chúng tôi chú trọng những phần dày nhất của mu bàn chân một cách nhất quán. Ngoài ra, chúng tôi đo dung tích hồng cầu, tiểu cầu, áp lực oxy máu động mạch, điện tâm đồ và tình trạng ngực để đánh giá các điều kiện dinh dưỡng hàng ngày.
2.4.2. Giải quyết thực nghiệm
Có hai loại vòng bít với IPC, loại ống bọc đầu gối và loại giày ống. Phương pháp sử dụng vòng bít là áp dụng chúng cho bệnh nhân trong phòng ICU trong 7 ngày kể từ khi họ bước vào phòng. Khi họ yêu cầu thay đổi tư thế hai giờ một lần thì cho họ nghỉ mười phút. Chúng tôi quyết định chờ 7 ngày trong khi thử nghiệm vì DVT thường xuất hiện sau 5 đến 7 ngày không di chuyển được và nằm trên giường. Hơn nữa, nếu nằm trên giường quá lâu thì tỷ lệ bị DVT cũng tăng [8, 19]. Vì vậy, họ đã được đề cập đến nghiên cứu [8] và không được để ở lại quá lâu trong các phòng ICU. Lý do chúng tôi cho bệnh nhân nghỉ 10 phút mỗi hai giờ là để quan sát sự lưu thông máu ở chân của họ trong khi thay đổi tư thế hai giờ một lần. Họ không thể nằm trên giường mà không có bất kỳ cử động nào, để loại bỏ các công cụ gây áp lực vì sử dụng các công cụ có thể làm cho bệnh nhân không thoải mái mà có thể xem trong tài liệu [8, 21].
2.4.3 Sau khi kiểm tra
Vận tốc dòng máu được đo để xác minh độ đồng nhất mỗi sáng lúc 8 giờ sáng trong 7 ngày. Để giảm thiểu lỗi chúng tôi tính giá trị trung bình ba lần một lần mỗi phút. Khi đo, chúng tôi để cho các bệnh nhân duy trì tư thế ngẩng đầu 30 độ. Ngay sau khi bệnh nhân hoàn thành kiểm tra siêu âm, chúng tôi đo vận tốc dòng máu tĩnh mạch và so sánh chúng với trước và sau khi can thiệp. Nhóm bệnh nhân được kiểm tra siêu âm không biết họ thuộc nhóm nào.
2.5 Phương pháp phân tích
Các đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu liên quan đến tỷ lệ bị DVT được phân tích với giá trị trung bình, tỷ lệ phần trăm và tần suất. Việc xác minh độ đồng nhất và hai nhóm và so sánh tốc độ trung bình của dòng máu tĩnh mạch giữa hai nhóm và chênh lệch chu vi vùng mắt cá chân và cổ chân được phân tích dựa trên xét nghiệm t hoặc χ2. Việc kiểm tra tính hiệu quả khi sử dụng IPC trong 7 ngày trước khi can thiệp IPC được phân tích bằng phương pháp 'ANOVA lặp đi lặp lại' như sau: Mức độ trầy xước trên da và kiểm tra xem có bị DVT hay không được phân tích bằng tỷ lệ phần trăm và tần số. Chúng tôi đã sử dụng gói thống kê cho Khoa học Xã hội 18.0 cho Windows để thu thập dữ liệu và ý nghĩa thống kê được đánh giá theo mức độ quan trọng 5%.
Bảng 1. Kiểm tra tính đồng nhất giữa các đặc điểm chung của bệnh nhân tham gia (N=60)
Đặc điểm |
Loại |
IPC-ống bọc đùi (n=30) |
IPC-giày ống (n=30) |
X2 hoặc t |
P |
N (%) |
N (%) |
||||
Giới tính |
Nam Nữ |
15 (50,0) 15 (50,0) |
15 (50,0) 15 (50,0) |
.000 |
1.000 |
Độ tuổi |
30-49 40-49 50-59 60-69 ³ 70 |
4 (13,3) 3 (10,0) 10 (33,3) 5 (16,7) 8 (26,7) |
1 (3,3) 4 (13,3) 10 (33,3) 8 (26,7) 7 (23,3) |
2,702 |
.609 |
Chẩn đoán |
U bướu Bệnh lý mạch máu Nhồi máu |
2 (6,7) 20 (66,7) 8 (26,6) |
8 (26,7) 16 (53,3) 6 (20,0) |
5,737 |
125 |
Lịch sử bệnh |
Có Không |
11 (36,7) 19 (67,3) |
8 (26,7) 22 (73,3) |
.693 |
.580 |
Thời giam sử dụng (phút) |
|
9,10 ± 2,79 |
9,05 ± 3,54 |
.061 |
.952 |
Trạng thái tinh thần |
Tỉnh táo
Mơ hồ Buồn ngủ Ngẩn ngơ Nửa hôn mê Hôn mê |
3 (10,0)
14 (46,7) 2 (6,7) 10 (33,3) 1 (3,3) 0 (0,0) |
2 (6,7)
9 (30,0) 1 (3,3) 11 (36,7) 5 (16,7) 2 (6,7) |
6,355 |
.275 |
X-ray ngực |
Bình thường Bất thường |
29 (96,7) 1 (3,3) |
30 (100,0) 0 (0,0) |
1,017 |
.313 |
ECG |
Bình thường Bất thường |
29 (96,7) 1 (3,3) |
30 (100,0) 0 (0,0) |
1,017 |
.313 |
ABGA |
Bình thường Bất thường |
29 (96,7) 1 (3,3) |
30 (100,0) 0 (0,0) |
1,017 |
.313 |
Tiểu cầu |
|
194,4 ± 50,5 |
170,2 ± 67,8 |
1,569 |
.122 |
Dung tích hồng cầu (%) |
|
35,8 ± 6,2 |
33,7 ± 6,0 |
1,300 |
.199 |